Sự khác biệt giữa Toàn cầu hoá và Chủ nghĩa Tư bản Sự khác biệt giữa chủ nghĩa tư bản

Anonim

Toàn cầu hoá so với chủ nghĩa tư bản

Toàn cầu hoá và chủ nghĩa tư bản là những thuật ngữ phổ biến hiện nay. Trong khi mọi người cho rằng hai thuật ngữ có thể được sử dụng hoán đổi cho nhau, thì đây không phải là trường hợp. Toàn cầu hoá là một thuật ngữ chung có thể được định nghĩa bằng nhiều cách, trong khi chủ nghĩa tư bản có một định nghĩa cụ thể. Không đúng khi giả định rằng toàn cầu hoá là đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản. Để tránh nhầm lẫn về hai thuật ngữ này, ta nên học từ khi nào và như thế nào từ 'toàn cầu hóa' trở nên phổ biến.

Một thuật ngữ quan trọng trước thời điểm toàn cầu hóa là "những người khổng lồ của công ty", được Charles Russell đề cập lần đầu. Vào những năm 1930, từ 'toàn cầu hóa' đã xuất hiện và được xác định chặt chẽ với giáo dục thông qua những trải nghiệm đáng kể của con người. Tuy nhiên, trong những năm 1960, thuật ngữ này được các nhà khoa học xã hội và các nhà kinh tế chấp nhận. Toàn cầu hoá có thể liên quan đến rất nhiều thứ. Qua nhiều năm, thuật ngữ này đã sinh ra các định nghĩa mâu thuẫn, thậm chí vô lý. Thật may mắn, Liên Hợp Quốc đã đưa ra một định nghĩa xác nhận rằng toàn cầu hoá nên được xem xét trong bối cảnh kinh tế. Liên hợp quốc đã định nghĩa toàn cầu hóa là tự do thương mại, bao gồm việc cắt giảm thuế quan và các trở ngại khác đối với dòng vốn tự do, hàng hóa, lao động và dịch vụ.

Mặt khác, các nhà kinh tế xác định toàn cầu hóa là sự đồng hoá các nền kinh tế quốc gia với nhau thành một nền kinh tế quốc tế khổng lồ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, di cư, thương mại, dòng vốn và thương mại. Toàn cầu hoá đi cùng với công nghệ hiện đại để tạo thuận lợi cho giao dịch và khuyến khích thương mại tự do trên toàn thế giới. Kết nối Internet đảm bảo rằng các giao dịch ngoại tệ chéo, hàng chục triệu đô la xảy ra hàng ngày. Đây là nơi thuật ngữ "chủ nghĩa tư bản" xuất hiện trong bức tranh.

Chủ nghĩa tư bản được định nghĩa là một hệ thống, trong đó phân phối và sản xuất kinh tế là thuộc sở hữu của các thực thể tư nhân để tích lũy lợi nhuận. Chủ nghĩa tư bản nghiêng về quyền sở hữu tư nhân như trái ngược với quyền sở hữu của chính phủ. Chủ nghĩa tư bản cũng dẫn đến thuật ngữ tự do thông báo, khẳng định rằng sự kiểm soát của chính phủ đối với thị trường là không cần thiết. Chủ nghĩa tư bản xuất hiện như là một hệ thống kinh tế cách trở lại trong thế kỷ 16. Nó đã thay thế chế độ phong kiến ​​như là hệ thống kinh tế chủ đạo của các nước phương Tây, và được các nước khác chấp nhận trong suốt thế kỷ 19 và 20.

Bây giờ, các thuật ngữ toàn cầu hoá và viết hoa có liên quan như thế nào? Cách chính xác để tích hợp hai thuật ngữ này là để khẳng định rằng toàn cầu hóa tạo ra chủ nghĩa tư bản. Việc loại bỏ các hạn chế đối với tự do thương mại đã khuyến khích các tổ chức tư nhân phát triển. Sự phổ biến rộng rãi của toàn cầu hóa đã cho phép duy trì quyền lực cho chủ nghĩa tư bản.Kết quả là, nhiều quốc gia trước đó đã từ chối chủ nghĩa tư bản đang dần dần gánh lấy nó như là một phương tiện để được kết hợp vào nền kinh tế toàn cầu được hình thành dưới sự toàn cầu hóa.

Toàn cầu hoá và chủ nghĩa tư bản luôn đi đôi với nhau, nhưng họ không thể thay đổi. Nếu ta muốn đề cập tới sự thống nhất của các nền kinh tế quốc gia khác nhau vào một nền kinh tế toàn cầu duy nhất và sự xuất hiện của tự do thương mại, toàn cầu hóa sẽ là thuật ngữ thích hợp hơn để sử dụng. Ngược lại, nếu người ta ủng hộ quyền sở hữu tư nhân đối với quyền sở hữu của chính phủ, thì điều này liên quan đến chủ nghĩa tư bản. Cả hai thuật ngữ này nên luôn luôn được sử dụng trong ngữ cảnh thích hợp của chúng.

Tóm lược

Toàn cầu hoá và chủ nghĩa tư bản là các thuật ngữ phổ biến được sử dụng để mô tả nền kinh tế.

  1. Toàn cầu hoá là một thuật ngữ chung có thể được định nghĩa bằng nhiều cách, trong khi chủ nghĩa tư bản có một định nghĩa cụ thể.
  2. Từ "toàn cầu hoá" lần đầu tiên được sử dụng trong những năm 1930; tuy nhiên, nó chỉ được sử dụng trong bối cảnh kinh tế trong những năm 1960.
  3. Có hai định nghĩa quan trọng về toàn cầu hóa. Hiệp ước đầu tiên được hình thành bởi Liên hiệp quốc, và định nghĩa toàn cầu hóa là tự do thương mại, bao gồm việc loại bỏ thuế quan và các trở ngại khác đối với dòng vốn tự do, hàng hóa, lao động và dịch vụ.
  4. Định nghĩa thứ hai được các nhà kinh tế sử dụng - mô tả quá trình toàn cầu hóa là sự đồng hoá các nền kinh tế quốc gia với nhau thành một nền kinh tế quốc tế khổng lồ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, di cư, thương mại, dòng vốn và thương mại.
  5. Chủ nghĩa tư bản được định nghĩa là một hệ thống trong đó phân phối và sản xuất kinh tế thuộc sở hữu của các thực thể tư nhân để tích lũy lợi nhuận. Chủ nghĩa tư bản nghiêng về quyền sở hữu tư nhân như trái ngược với quyền sở hữu của chính phủ.
  6. Chủ nghĩa tư bản được khuyến khích bởi toàn cầu hóa. Tuy nhiên, hai điều khoản không thể được trao đổi.