Sự khác biệt giữa Amnion và Chorion Sự khác biệt giữa

Anonim

Amnion vs. Chorion

Amnion và chorion đều hiện diện trong thời kỳ mang thai của người phụ nữ và là một phần của màng phôi thừa có chức năng phát triển tổng thể của phôi. Chúng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng, thở và thấm rữa phôi.

Hòn amnion là một túi mỏng nhưng cứng cáp màng bao phủ một phôi. Nó hiện diện trong sự phát triển phôi của các loài bò sát, chim chóc và động vật có vú. Tuy nhiên, nó không có trong sự phát triển của lưỡng cư và cá con.

Mục đích chính của amnion là bảo vệ phôi trong những tháng mang thai. Nó giúp làm giảm nguy cơ thương tích cho phôi thai non và sự phát triển của nó trong dạ con. Về cơ bản, amnion là một trong những biện pháp bảo vệ chống lại bất kỳ tổn thương thai nhi tiềm tàng trong giai đoạn phát triển. Bất kỳ chấn thương hoặc tổn hại nào có thể dẫn đến tử vong ở thai nhi.

Hạt amnion có tiếp xúc vật lý và được làm đầy với chất lỏng gọi là dịch màng ối. Nước ối đóng vai trò là chất hấp thụ sốc cho thai nhi để bảo vệ nó khỏi các yếu tố độc hại hoặc bên ngoài. Phôi nằm trong sự treo lơ lửng trong amiion và nước ối.

Ngoài bảo vệ, amnion cung cấp một cửa ngõ để chuyển chất dinh dưỡng và các nhu cầu thiết yếu khác cho phôi thai non. Amnion có thể mở rộng và linh hoạt trong kích thước vì nó cố gắng để phù hợp với sự phát triển của phôi đến giai đoạn sau của nó. Hàm lượng amiăng được tìm thấy ở phần bên trong cùng của nhau thai. Nó tạo thành dòng nước ối và giữ nước ối và phát triển phôi. Màng được tạo thành từ tresodeum ở bên ngoài và ectoderm ở bên trong, có các tế bào đặc hiệu với các chức năng cụ thể.

Các vết vỡ của amnion và sự phóng thích của chất dịch màng ối là dấu hiệu bắt đầu giai đoạn sinh của thai nghén.

Mặt màng phổi là màng ngoài bao quanh màng phôi, phôi, và các màng tế bào khác trong tử cung. Nó được coi là nền tảng hỗ trợ của bào thai và hạch ami. Nó có trong phôi của bò sát, chim chóc và động vật có vú. Ở động vật có vú, nó góp phần vào sự phát triển của nhau thai.

Hai lớp tạo thành màng nhày - trophoblast như lớp bên ngoài, và mesoderm như lớp bên trong. Khu Mesodee là một trong những tiếp xúc với amnion. Trophoblast cung cấp chất dinh dưỡng cho bào thai trong thời gian bị giam giữ, trong khi tế bào trứng biến thành nhiều phần của cơ thể phôi, như răng và hệ thần kinh.

Lớp đệm tạo thêm sự bảo vệ cho phôi, nhưng nó cũng thúc đẩy sự trao đổi chất dinh dưỡng và chất lỏng cần thiết khác giữa mẹ và phôi.

Ngoài ra, màng phổi có một đặc điểm đặc biệt gọi là màng nhầy. Các villi mọc lên từ màng phổi để đạt được nhiều máu của người mẹ, chất lỏng chính mang chất dinh dưỡng từ thực phẩm của mẹ đến phôi. Chúng cũng đóng vai trò hàng rào giữa máu bào thai và máu mẹ trong thời gian phát triển của bào thai.

1. Cả amnion và chorion là những màng phôi thừa được tìm thấy trong các loài bò sát, chim chóc và động vật có vú.

2. Màng là màng trong bao quanh phôi, trong khi màng bao phủ phôi, amiion, và các màng khác.

3. Huyết quản được làm đầy nước ối chứa phôi trong khi treo, trong khi màng phổi cũng hoạt động như một hàng rào bảo vệ trong quá trình phát triển phôi.

4. Hạt amnion được tạo thành từ tresodeum và ectoderm, trong khi màng phổi bao gồm trophoblast và mesoderm.

5. Màng phổi có đặc điểm đặc biệt gọi là màng nhầy, hoạt động như một rào cản giữa máu mẹ và máu của bào thai. Nó hấp thụ máu của người mẹ cho chất phôi và các nhu yếu phẩm khác, trong khi amnion đóng một phần trong giai đoạn sinh. Sự vỡ vụn của màng tế bào là một dấu hiệu cho thấy con cái hình thành hoàn toàn đã sẵn sàng thoát ra khỏi tử cung.